Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự pháp luật bảo về như thế nào?

Trong giao dịch dân sự, chúng ta hàng ngày rất dể rơi vào trường hợp là người mua tài sản, tuy nhiên tài sản đó là tài sản chúng ta không biết giao dịch trước đó có một giao dịch không hợp pháp. trường hợp này được quy định tại Điều 133 Bộ luật dân sự 2015. tôi đã đọc 2 bài viết dưới đây các bạn tham thảo: 

Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự pháp luật bảo về như thế nào?

Bài thứ nhất

Trong giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình được hiểu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ trong hai trường hợp. Thứ nhất, khi giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật. Thứ hai, khi người thứ ba ngay tình nhận được bất động sản hoặc động sản phải đăng ký quyền sở hữu thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Tuy nhiên, quá trình thực thi cho thấy quy định hiện hành chưa bảo vệ một cách triệt để quyền lợi của người thứ ba khi mà việc giao dịch của họ là thiện chí, ngay tình và trong một số trường hợp chưa bảo đảm được tính ổn định của các giao dịch dân sự. Đặc biệt là đối với các giao dịch dân sự mà đối tượng giao dịch là tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu và người thứ ba căn cứ vào tình trạng đã đăng ký của tài sản để thực hiện việc giao dịch. Do vậy, dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi đã quy định chặt chẽ hơn, chi tiết hơn và theo hướng bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người thứ ba ngay tình có thiện chí. Theo đó, ngoài việc giữ nguyên các quy định hiện hành, Dự thảo bổ sung thêm quy định trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết, hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu. Tuy nhiên, người viết cho rằng, để các quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình được hoàn thiện hơn nhằm góp phần bảo đảm sự ổn định của các giao dịch trong quan hệ dân sự thì có một số vấn đề nên được cân nhắc thêm, cụ thể:

1. Khoản 1 Điều này quy định “Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 184 của Bộ luật này”. Theo đó, Điều 184 quy định “Chủ sở hữu, chủ thể có vật quyền khác có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”. Theo quy định trên đây thì quyền lợi của người thứ ba sẽ không được bảo vệ khi chủ sở hữu đòi lại tài sản mà tài sản đó là động sản không phải đăng ký do người chiếm hữu ngay tình có được thông qua hợp đồng không có đền bù hoặc tài sản đó là động sản đã bị lấy cắp, bị mất hoặc bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu. Mặc dù quy định này là hợp lý nhằm bảo vệ quyền của chủ sở hữu, tuy nhiên quy định này chưa được rõ ràng, cụ thể. Bởi vì, Dự thảo chưa quy định trách nhiệm của chủ sở hữu trong việc chứng minh tư cách chủ sở hữu của mình. Người viết cho rằng, nếu chủ sở hữu tài sản không chứng minh được tư cách chủ sở hữu của mình thì quyền đòi lại tài sản nên bị bác bỏ và quyền lợi của người thứ ba ngay tình nên được bảo vệ. Bởi về bản chất thì đối với động sản không đăng ký quyền sở hữu, pháp luật không bắt buộc người chiếm hữu phải biết việc chiếm hữu của người giao dịch là hợp pháp hay không. Hơn nữa, trên thực tế để chứng minh tình trạng hợp pháp đối với động sản không phải đăng ký quyền sở hữu là rất khó vì không có giấy tờ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận chủ sở hữu tài sản. Do vậy, người thứ ba ngay tình trong trường hợp này cũng không thể biết việc họ chiếm hữu động sản không đăng ký là không có căn cứ pháp luật và việc giao dịch của họ là thiện chí. Vì vậy, nếu chủ sở hữu tài sản không chứng minh được tư cách chủ sở hữu của mình thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình nên được bảo vệ là phù hợp hơn.

Ngoài ra, Dự thảo luật cũng nên bổ sung thêm quy định nhằm hạn chế quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu nếu người thứ ba ngay tình chiếm hữu tài sản liên tục, công khai trong thời hạn mười năm thì chủ sở hữu tài sản không được quyền đòi lại tài sản để thống nhất với quy định về thời hiệu xác lập quyền sở hữu đối với động sản được quy định tại Điều 175 Dự thảo.

2. Khoản 2 Điều 145 Dự thảo quy định trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba biết, hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu. Theo quy định này thì trong trường hợp tài sản là đối tượng giao dịch đã được đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng do bị chiếm đoạt một cách bất hợp pháp thì quyền lợi của người thứ ba sẽ không được bảo vệ vì theo quy định của pháp luật người thứ ba có nghĩa vụ phải biết là tài sản đó bị chiếm đoạt bất hợp pháp. Người viết cho rằng, quy định như trên là không phù hợp với thực tế, bởi vì thông thường để chứng minh một tài sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu có bị chiếm đoạt bất hợp pháp hay không, người tham gia giao dịch chỉ có thể thực hiện thông qua việc kiểm tra các giấy tờ đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. Như vậy, khi một tài sản đã được chủ sở hữu thực hiện đăng ký quyền sở hữu tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có nghĩa rằng tài sản đó đã được cơ quan nhà nước xác nhận là tài sản có chủ sở hữu. Vì vậy, việc người thứ ba đã căn cứ vào việc xác nhận đó của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự thì hành vi giao dịch của họ là có căn cứ pháp luật. Mối quan hệ tài sản bất hợp pháp giữa người giao dịch với người thứ ba và chủ sở hữu tài sản thực sự đã được hợp thức hóa bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua việc thực hiện đăng ký quyền sở hữu tài sản. Do vậy, nếu Dự thảo quy định người thứ ba có trách nhiệm phải biết tài sản đã được đăng ký quyền sở hữu có phải là tài sản bị chiếm đoạt bất hợp pháp hay không là không phù hợp với thực tiễn và vô hình chung nhà nước đẩy trách nhiệm xác minh tính hợp pháp của tài sản cho người thứ ba. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nên cân nhắc bỏ quy định “trừ trường hợp người thứ ba biết, hoặc phải biết tài sản là đối tượng của giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu.” để Dự thảo hoàn thiện hơn và bảo đảm tính khả thi của Dự thảo.

                                                                                                                Trần Thị Túy

Nguồn: https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1731

Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự pháp luật bảo về như thế nào?

Bài thứ hai:

Sau khi đọc bài viết “Bất cập quy định bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình khi hợp đồng vô hiệu” của tác giả Nguyễn Hoàng Bá Huy đăng ngày 22/7/2022, tôi có ý kiến cùng trao đổi lại với tác giả.

Bài viết đưa ra nhận định: “Kể cả trong trường hợp bản án, quyết định đó không bị sửa cũng đã đủ xác định người thứ ba là ngay tình, chúng ta không nên phân biệt là bản án, quyết định có bị hủy, sửa hay không, hợp đồng đó đều được xác định là có hiệu lực” và kiến nghị “chúng ta có thể bỏ luôn quy định “do bản án, quyết định bị hủy, sửa””. Tôi không đồng tình với ý kiến trên và xin được trao đổi lại cùng tác giả các luận giải sau.

1. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi bản án, quyết định bị hủy, sửa là trường hợp ngoại lệ

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi bản án, quyết định bị hủy, sửa là một trong hai trường hợp ngoại lệ của khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi đối tượng của giao dịch là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu[1].

Theo đó, trong hầu hết các trường hợp, khi đối tượng của giao dịch là tài sản phải đăng ký, thì người thứ ba ngay tình chỉ được xem xét bảo vệ quyền lợi khi tài sản đó đã được người thứ hai đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì đối với tài sản phải đăng ký, người thứ ba ngay tình nói riêng và xã hội nói chung thường sẽ nhìn vào việc đăng ký đó để tin tưởng rằng người nắm giữ tài sản có quyền đối với tài sản. Nói cách khác, đối với tài sản phải đăng ký thì quyền sở hữu đối với tài sản không tự phát sinh khi người đó chiếm hữu, cầm nắm tài sản mà chỉ phát sinh khi và chỉ khi được Nhà nước công nhận quyền sở hữu bằng cách thực hiện việc “đăng ký tài sản”.

Tuy nhiên, nếu người thứ ba ngay tình nhận được tài sản thông qua giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa thì giao dịch do người thứ ba ngay tình xác lập vẫn có hiệu lực. Bởi lẽ, trong trường hợp này pháp luật không xét đến tài sản đã đăng ký hay chưa vì bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng là một sự công nhận quyền sở hữu tài sản với một người[2], tương tự như việc họ mang tài sản đó đi đăng ký, do đó, đây được xem là căn cứ để người thứ ba ngay tình xác lập giao dịch với họ. Hơn nữa, việc hủy bỏ hoặc sửa bản án, quyết định nêu trên cũng không phát sinh từ lỗi của người thứ ba ngay tình vì người thứ ba ngay tình không thể biết hoặc lường trước được bản án, quyết định của cơ quan nhà nước sẽ bị hủy, sửa.

2. “Bản án, quyết định bị hủy, sửa” chính là tiền đề cho sự xuất hiện của người thứ ba ngay tình

Điểm mấu chốt của quy định tại khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 chính là nội dung “nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa”. Đây là điểm chốt yếu, cần thiết để xuất hiện người thứ ba ngay tình. Bởi lẽ, bảo vệ người thứ ba là khi giao dịch dân sự có người thứ ba tham gia đáng lẽ phải vô hiệu vì người thứ hai tham gia giao dịch không có quyền định đoạt tài sản và người thứ ba đúng là “ngay tình” nên được pháp luật bảo vệ bằng cách công nhận hiệu lực giao dịch mà họ đã tham gia.

Nói cho rõ hơn, nếu thiếu mệnh đề trên thì người thứ hai đương nhiên có quyền định đoạt tài sản và chủ thể được nhắc đến tại khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 là người tham gia (người thứ ba) với người có quyền định đoạt tài sản (chủ sở hữu tài sản). Giao dịch giữa họ đương nhiên hợp pháp thì không cần phải đặt ra việc bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba làm gì nữa.

Ví dụ: A và B xác lập một hợp đồng cho mượn đất, trong quá trình thực hiện hợp đồng, hai bên xảy ra tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và khởi kiện ra Tòa án. Tòa án tuyên bố B có quyền sở hữu đất. Trên cơ sở bản án của Tòa án, B bán mảnh đất cho C. Sau đó, A kháng cáo bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm xét thấy tại phiên tòa sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nên đã hủy bản án sơ thẩm, và tuyên A có quyền sở hữu đối với mảnh đất. 

Trong ví dụ trên, C là người thứ ba đối với hợp đồng giữa A và B, và tư cách người thứ ba của C xuất hiện là do bản án của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy. Giả sử, bản án của Tòa án không bị hủy, thì giao dịch giữa B và C có hiệu lực như các giao dịch thông thường khác, khi đó C không còn là người thứ ba đối với hợp đồng giữa A và B mà ở đây và cũng không cần phải xem xét đến việc có hay không nên bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình. Do đó, có thể nhận định “bản án, quyết định bị hủy, sửa” là tiền đề xuất hiện người thứ ba ngay tình.

Như vậy,  đối với trường hợp ngoại lệ nêu trên, mặc dù các điều kiện để người thứ ba ngay tình được bảo vệ đã được giản lược, nhưng người thứ ba vẫn phải đáp ứng các điều kiện tối thiểu của Điều 133 BLDS năm 2015 thì mới được bảo vệ theo chế định bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình – trước hết phải là người thứ 3 đối với một giao dịch dân sự. Do đó, tác giả không đồng quan điểm với các nhận định “Điều kiện về bản án, quyết định bị hủy hoặc sửa là không cần thiết”, “quyết định có bị huỷ, sửa cũng không ảnh hưởng tới việc công nhận hợp đồng của người thứ ba ngay tình” và kiến nghị “Chúng ta có thể bỏ luôn quy định “do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”[3], bởi lẽ, nếu không có điều kiện trên thì sẽ không xuất hiện người thứ ba để có thể xem xét họ có ngay tình hay không ngay tình.

3. “Bản án, quyết định bị hủy, sửa” là tiền đề quan trọng cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu tài sản với người thứ ba ngay tình

Tác giả Nguyễn Hoàng Bá Huy cho rằng “Kể cả trong trường hợp bản án, quyết định đó không bị sửa cũng đã đủ xác định người thứ ba là ngay tình, chúng ta không nên phân biệt là bản án, quyết định có bị hủy, sửa hay không, hợp đồng đó đều được xác định là có hiệu lực” là không phù hợp vì những lý do sau.

Một. BLDS năm 2015 đã quán triệt theo hướng sửa đổi quy định nhằm làm sao cho quyền của người thứ ba ngay tình được bảo vệ triệt để hơn[4].

Mặc dù trong quá trình lấy ý kiến sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015 đã có quan điểm cho rằng nên bỏ đi điều kiện “bản án, quyết định bị hủy, sửa” trong trường hợp ngoại lệ trên[5], nhưng trong quá trình nghiên cứu ban hành bộ luật mới các nhà làm luật vẫn không thay đổi quy định này là vì việc “bản án, quyết định bị hủy, sửa” còn là căn cứ để xác định chủ sở hữu đích thực của tài sản.

Hai. Quy định pháp luật dựa trên nguyên tắc cân bằng quyền lợi hợp pháp giữa chủ sở hữu tài sản với người thứ ba.

Theo pháp luật dân sự Việt Nam cũng như kinh nghiệm các nước, chỉ có chủ sở hữu tài sản mới có đầy đủ các quyền chiếm hữu, quyền định đoạt và quyền sử dụng đối với tài sản. Tham khảo pháp luật Hoa Kỳ[6], Bộ luật Thương mại thống nhất năm 1952 (The Uniform Commercial Code 1952) cũng quy định nguyên tắc “Không ai có thể chuyển quyền sở hữu tài sản vượt quá phạm vi quyền hạn bản thân người đó có”. Đây là những nguyên tắc cơ bản để bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu. Quy định này xuất phát từ hai tiền đề[7]: (i) đảm bảo chủ sở hữu tài sản được trả tiền - giá trị được nhận về khi chủ sở hữu bỏ ra tài sản, và không bị tước đi giá trị đó bởi người mua ngay tình; (ii) quy định người mua phải có trách nhiệm xác nhận tư cách pháp lý của người bán đối với tài sản nên nếu việc xác nhận không thực hiện được dẫn đến khả năng xảy ra giao dịch gian dối, thì người mua phải chịu tổn thất trong giao dịch mình tham gia.

Do đó, có thể thấy việc xác định ai là chủ sở hữu tài sản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Trở lại ví dụ được đề cập trên, dựa trên bản án bị hủy, Tòa án cấp phúc thẩm đã xác định A là chủ sở hữu thật sự của mảnh đất, nhưng vì C đã căn cứ vào bản án của Tòa án cấp sơ thẩm để xác lập hợp đồng với B, hay nói cách khác, C hoàn toàn ngay tình khi tham gia giao dịch, do đó, pháp luật đã ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình là C.

Tuy nhiên, trên cơ sở bản án bị hủy, A vẫn có thể khởi kiện yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại[8]. Giả sử, bản án không bị hủy, thì trong trường hợp này A không được xác định là chủ sở hữu tài sản, trong khi tài sản ban đầu và thực tiễn có thể vốn dĩ thuộc về A, điều này rõ ràng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu là A.

Do đó, có thể kết luận, “bản án, quyết định bị hủy, sửa” còn có ý nghĩa quan trọng trong việc cân bằng lợi ích giữa chủ sở hữu tài sản và người thứ ba ngay tình. Mặc dù, trong trường hợp ngoại lệ trên, pháp luật đã ưu tiên bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình nhưng trên cơ sở “bản án, quyết định bị hủy, sửa”, chủ sở hữu ban đầu của tài sản vẫn được bảo vệ ở mức độ nhất định như khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại. Nếu như bỏ đi điều kiện “bản án, quyết định bị hủy, sửa” có thể xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản. Ngoài ra, qua tìm hiểu quy định của BLDS Phi-lip-pin cùng các quy định của các nước khác chúng tôi cũng chưa thấy có quy định nào tương tự như tác giả đã viện dẫn[9].

Thay lời kết

Qua phân tích và luận giải trên, có thể khẳng định rằng “bản án, quyết định bị hủy, sửa” là điều kiện cần để xem xét áp dụng chế định bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình tại Điều 133 BLDS năm 2015. Do vậy, việc bỏ đi nội dung này theo như quan điểm của tác giả là không phù hợp, chưa phản ánh đúng tinh thần của Điều 133 về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.

Chúng tôi rất mong tiếp tục nhận được các ý kiến trao đổi của quý độc giả./.

Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử phúc thẩm “Chia di sản thừa kế và yêu cầu trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” - Ảnh: Phương Anh

Nguồn: https://tapchitoaan.vn/dieu-kien-bao-ve-quyen-loi-cua-nguoi-thu-ba-ngay-tinh-khi-giao-dich-dan-su-vo-hieu-do-ban-an-quyet-dinh-bi-huy-sua7279.html

0 Nhận xét